CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI CỔNG THÔNG TIN BẢO TÀNG NINH BÌNH!

Sưu tập trang phục, đạo cụ, nhạc cụ thực hành nghi lễ chầu văn của người Việt

Sưu tập trang phục, đạo cụ thực hành nghi lễ chầu văn của người Việt tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình có 338 hiện vật là những trang phục, đạo cụ, nhạc cụ được sưu tầm tại các di tích thờ Mẫu, thuộc Phủ Nấp, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (Nay là xã Yên Đồng, tỉnh Ninh Bình) và quần thể di tích Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định ( Nay là xã Vụ Bản, tỉnh Ninh Bình). Sưu tập hiện vật là một hệ thống những trang phục, đạo cụ, nhạc cụ ứng với 36 giá đồng trong thực hành nghi lễ chầu văn. Đó là những hiện vật gắn với thần tích, tính cách các vị thần linh mỗi giá đồng. Mỗi bộ trang phục được may thêu cầu kỳ, lại đượm sắc thái của nhiều vùng miền, nhiều dân tộc do các thanh đồng lựa chọn theo tư duy, thẩm mỹ của mình nên không bộ nào giống bộ nào, có giống nhau chăng là quy ước về màu sắc theo từng Phủ. Các vị thánh thuộc phủ nào sẽ mặc trang phục theo phủ đó. Thiên phủ ( màu đỏ), Địa phủ (màu vàng), Thoải phủ (màu trắng), Nhạc phủ (màu xanh). Các trang phục được may thêu cầu kỳ, lại đượm sắc thái của nhiều vùng miền, nhiều dân tộc do các thanh đồng lựa chọn theo tư duy, thẩm mỹ của mình nên không bộ nào giống bộ nào, gồm: Y phục (trang phục thanh đồng mặc trước khi hầu đồng); Khăn tấu hương; khăn phủ diện; Trang phục Tam vị Thánh Mẫu; Trang phục Ngũ vị Quan lớn; Trang phục Tứ vị Chầu Bà hay Tứ vị Thánh Bà; Trang phục các Ông Hoàng; Trang phục Thập Nhị Vương Cô; Trang phục Tứ phủ Thánh Cậu; Trang phục người hầu dâng; Trang phục người hát văn. Bên cạnh trang phục là các nhạc cụ, đạo cụ cũng rất đa dạng góp phần quan trọng không thể thiếu trong một buổi thực hành nghi lễ chầu văn. Tùy theo nội dung, thần tích các vị Thánh mà các đạo cụ, nhạc cụ được sử dụng, cụ thể: Đối với Thánh hàng Quan thường có múa kiếm, long đao, kích... Cung văn chơi nhạc và hát điệu hát dồn, lưu thủy, có tiếng trống và cảnh đồng đệm nhịp. Thánh hàng Chầu Bà thường có múa mồi, múa quạt theo nhịp điệu xà thượng, xá giây lệch. Thánh hàng Ông Hoàng thường có múa cung, múa hèo theo nhị điệu lưu thủy, hát bộ. Thánh hàng Cô thường múa mồi, múa quạt, múa chèo đò, múa thêu hoa, dệt gấm, múa hái hoa...theo các nhịp bỏ bộ, lưu thủy, điệu xá. Thánh hàng Cậu thường múa hèo, múa lân, theo điệu lưu thủy, bỏ bộ có đệm theo nhịp trống sư tử. - Nhóm hiện vật đạo cụ, gồm 3 nhóm: + Nhóm binh khí như: đao, kiếm, cờ để thể hiện các nhân vật dũng mãnh, uy quyền đánh giặc trừ tà. + Nhóm đạo cụ thể hiện sự quyền quý, tao nhã như: hèo, quạt, hộp thuốc, bút đề thơ, nậm rượu,... + Nhóm đạo cụ giá các Cô có mái chèo, quang gánh, lẵng hoa, nón quai thao, túi chầu dao quắm, thậm chí giá Cô Tám đồi chè còn có cả một cành chè tươi... - Nhóm hiện vật nhạc cụ gồm: đàn nguyệt, phách, cảnh đôi, thanh la, sáo, mõ, trống cái và trống con. Ngoài trang phục, đạo cụ, nhạc cụ gắn với các giá đồng, sưu tập còn có một số hiện vật khác là những vật dụng quan trọng không thể thiếu đối với thanh đồng trong quá trình thực hành nghi lễ chầu văn như: “Bàn loan”, lọ hoa, chiếc gương soi, gối vỗ, gối tựa, hòm đựng xiêm y (trang phục), hộp đựng đồ trang điểm,.... Như vậy sưu tập hiện vật trang phục, đạo cụ không chỉ phong phú về loại hình mà còn có giá lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ phản ánh sâu sắc tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và nghi lễ chầu văn của người Việt nói riêng mà Phủ Dầy chính là nơi khởi nguồn, hội tụ và lan tỏa. Sưu tập hiện vật không chỉ giúp nhận diện sự khác biệt về hình thức giữa dòng đồng cốt (nghi thức hầu đồng gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu) với hình thức Lên đồng của dòng Thanh đồng mang tính ma thuật thường diễn ra trong dịp giỗ đức Thánh Cha mà còn hình dung ra một sân khấu tâm linh, ở đó có 36 màn trình diễn trang phục tương ứng với 36 giá đồng và những làn điệu âm nhạc hấp dẫn cuốn hút. Với những giá trị cốt lõi đó, ngày 1/12/2016 UNESCO chính thức ghi danh “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã góp phần thêm khẳng định những giá trị độc đáo quý hiếm của di sản văn hóa vật thể đang lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình.

Sưu tập hiện vật gốm hoa lam thời Lê - Mạc thế kỷ XV - XVI

Trong lịch sử gốm sứ Việt Nam, gốm hoa lam có vị trí quan trọng, được coi là một trong những thành tựu vĩ đại của nền công nghệ gốm Việt Nam, nhất là thời kỳ Lê - Mạc thế kỷ XV - XVI. Gốm hoa lam là tên gọi một loại sản phẩm gốm có trang trí bằng màu xanh lam. Đây không chỉ là màu men xanh lần đầu tiên xuất hiện trên gốm Việt Nam mà còn là sự chuyển đổi cả về phương diện kỹ thuật và nghệ thuật trang trí. Sưu tập hiện vật gốm hoa lam thời Lê - Mạc thế kỷ XV - XVI tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình cơ sở 2 gồm 152 hiện vật được sưu tầm qua các đợt khai quật khảo cổ trên địa bàn tỉnh và từ nguồn hiện vật hiến tặng. Cũng như các loại hình gốm khác, gốm hoa lam thời Lê - Mạc tập trung chủ yếu ở hai loại hình là gốm dùng trong sinh hoạt (chiếm số lượng chủ yếu) như bát, đĩa, bình, lọ… và gốm dùng trong đồ thờ như chân đèn, bát hương. Phần lớn gốm hoa làm được làm từ loại đất sét trắng, được tinh luyện khá kỹ, nung ở nhiệt độ 1300 độ C. Chất liệu tạo mẫu chủ yếu là oxi coban màu xanh lam hay còn gọi là màu chàm, đặc biệt là phương pháp vẽ trang trí dưới men và giữa men của sản phẩm gốm hoa lam tạo nên một hiệu quả kỳ diệu. Khi sản phẩm đã được qua lò nung, hoa văn trang trí thêm phần lung linh sống động. Ngoài lối vẽ bằng màu xanh lam trực tiếp lên sản phẩm, sau này người ta còn sử dụng cả lối trang trí đắp nổi. Đề tài trang trí trên gốm hoa lam thời Lê - Mạc rất phong phú, da dạng. Trên đồ dùng sinh hoạt thường trang trí hoa cỏ thực vật, phong cảnh, hoa văn hình học, sóng nước…; trên đồ thờ trang trí hình rồng, phượng, chữ Hán… Đặc biệt, hầu hết các hiện vật là đồ thờ đều có minh văn (chữ hán). Thời kì này, những làng gốm thủ công mang tính chất chuyên môn hóa. Vai trò của người thợ gốm được đề cao, bằng chứng là người thợ gốm được ghi tên mình và niên đại tạo tác lên sản phẩm. Sưu tập gốm hoa lam thời Lê - Mạc thế kỷ XV - XVI tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình cơ sở 2 đã phần nào phản ánh xã hội đương thời, một xã hội phát triển với tư duy thẩm mĩ cao. Đặc biệt bộ chân đèn và lư hương thuộc sưu tập gốm hoa lam thời Lê Mạc đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia vào đợt 2 ngày 30/12/2013 theo Quyết định số 2599/QĐ-TTg. Đây là một bộ sưu tập độc đáo với những đặc trưng phong phú về đề tài, thủ pháp, kỹ thuật cũng như các mặt giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật góp phần làm phong phú vốn di sản văn hóa tại Bảo tàng cũng như trên quê hương Ninh Bình - vùng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa.

Sưu tập hiện vật phản ánh cuộc sống của người dân thành phố Nam Định ( Nay là phường Nam Định, tỉnh Ninh Bình)

Sưu tập hiện vật phản ánh cuộc sống của người dân thành phố Nam Định ( Nay là phường Nam Định, tỉnh Ninh Bình) thời kỳ Bao cấp giai đoạn 1976-1986. Sưu tập hiện vật gồm có 107 hiện vật. Mỗi một hiện vật liên quan đến một câu chuyện cảm động, phản ánh những đặc trưng của thời Bao cấp (giai đoạn 1976 – 1986) cụ thể là: Cơ chế của nhà nước; Hình thức phân phối các mặt hàng nhu yếu phẩm qua hình thức bốc thăm, tem phiếu, sổ mua lương thực….Từ cơ chế đó đã tác động ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân thành phố Nam Định một thời. Sưu tập hiện vật phân thành 3 nhóm hiện vật thể hiện 3 chủ đề đặc trưng: -Nhóm hiện vật phản ánh đời sống của người dân thành phố Nam Định dựa trên sự phân phối của Nhà nước: Với những hình ảnh Cửa hàng mậu dịch quốc doanh, Cửa hàng bách hóa bán buôn bán lẻ,..hình ảnh xếp hàng mua lương thực, thực phẩm, các loại Sổ mua lương thực và tem phiếu, tiền….là những minh chứng xác thực phản ánh cơ chế phân phối lương thực, thực phẩm cho người dân thành phố Nam Định giai đoạn 1976-1986. Thời kỳ này hàng hoá được Nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển hàng hoá tự do từ địa phương này sang địa phương khác. Chế độ hộ khẩu được thiết lập để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Đồng tiền bị mất giá, có tiền đôi khi cũng khó có thể mua được vật dụng như mong muốn. Bởi mọi nhu yếu phẩm phục vụ cuộc sống lúc bấy giờ là được trao đổi bằng tem phiếu. Hàng hóa khó khăn thiếu thốn mọi thứ nhưng cũng không ít thừa thãi. Đó là đặc trưng của cơ chế làm theo chỉ tiêu, bán theo phân phối, không được tự do trao đổi mua bán hàng hóa trên thị trường. Tất cả đều phải thực hiện dưới sự quản lý của Nhà nước. Điều đó, lý giải vì sao, có những nhà đến 3, 5 tháng liền chỉ được lĩnh vải mà không được lĩnh xà phòng; nhà toàn phụ nữ nhưng khi lĩnh tiêu chuẩn quần áo lót thì toàn quần đùi, áo may ô, và dao cạo râu…Lương công nhân, viên chức chỉ được trả một phần so với thực tế, phần còn lại được quy ra hiện vật, trả bằng sản phẩm do chính mình làm ra hoặc được quy đổi bằng những vật dụng mà có khi cả tháng trời mang về không biết sử dụng vào việc gì. Ngay cả đến những chiếc bát ăn cơm, bộ ấm chén để uống nước, mũi kim, cuộn chỉ…hay bất kể một thứ vật dụng nào được sử dụng phục vụ cho cuộc sống của con người đều do Nhà nước phân phối hoặc mua bằng hình thức tem phiếu theo quy định. Bao cấp là như vậy, không kể người dân thành phố hay nông thôn, không phân biệt đối tượng, Nhà nước bao cấp, điều hành và chi phối tất cả. Mỗi hộ gia đình ở phố được chia theo tiêu chuẩn 4m2/ người nên không gian quá chật chội. Tiêu chuẩn đó cũng không giữ được khi mỗi gia đình tự nở ra thành hai, ba , bốn gia đình bởi con cái lớn lên và lấy vợ, lấy chồng nhưng tất cả vẫn sinh hoạt trong không gian cũ. Thời đó, buổi tối người ta nhìn vào căn nhà, bên trong được ngăn nhỏ ra bằng các tấm ri-đô, mỗi một khoang riđô là một đôi vợ chồng, đôi khi con cái cũng chui vào đó. Sáng ra tất cả ri đô được kéo gọn lại và căn phòng trở nên công cộng như cũ. Giường không đủ cho tất cả nên một số người phải trải chiếu nằm đất. Thời bao cấp một số sản phẩm được mua theo cơ chế phân phối đặc trưng như: ti vi, Radio, đài catsset, đầu đĩa, quạt con cóc, quạt tai voi, chiêc đồng hồ, nồi áp suất, máy ảnh, xe đạp peugeot,…. Đó là những sản phẩm xa xỉ, là ước mơ của nhiều người và chỉ có những cậu ấm cô chiêu của các gia đình khá giả mới có cơ hội tiếp cận với những sản phẩm đỉnh cao của công nghệ thời đại đó. Thời kỳ này nền kinh tế nghèn nàn đã tác động, ảnh hưởng làm cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn, thiếu thốn mọi mặt. Tuy nhiên trong “cái khó ló cái khôn” và những đức tính trời phú cho con người như đùm bọc yêu thương nhau, năng động sáng tạo lại được phát huy hiệu quả. Người ta biết sống vì nhau và tự giác hơn. Dẫu chỉ là một hòn đá xếp hàng nhưng chẳng ai nỡ gạt nó ra để thế chỗ mình vào. Cứ để viên đá thay mặt về nhà lo cám lợn, lo cho con đi học rồi quay lại mua gạo vẫn còn nguyên vị trí thứ tự xếp hàng của mình. Hay trong cái sự xếp hàng ấy, ai bế con nhỏ thế nào cũng được nhường vị trí lên trước để vừa mua được hàng sớm vừa mua được hàng ngon. -Nhóm hiện vật phản ánh đời sống văn hóa thời Bao cấp như: Máy chiếu phim, kịch bản, progam,vé xem phim,…là những hiện vật phản ánh một thời kỳ nền kinh tế nghèo nàn nhưng lĩnh vực văn hóa sôi động tạo ra đời sống tinh thần lành mạnh, góp phần phát triển và ổn định xã hội. Các rạp phim và kịch được mở lại thứ bảy, chủ nhật, khán giả đông nghìn nghịt, thậm chí rất có thể không mua được vé. Phương tiện thông tin duy nhất lúc đó là đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam nên mốt đàn ông ra đường đi xe đạp và đeo đài rất thịnh hành. Hàng tháng các Đoàn phim và kịch, chèo từ thành phố về nông thôn lưu diễn. Họ mang theo cả phông màn, nhạc cụ, máy chiếu phim đơn (quay từng cuộn một), máy nổ,…. Người dân nông thôn háo hức, thậm chí đi bộ mấy cây số để đến xem chiếu phim, diễn kịch. -Nhóm hiện vật phản ánh sự mưu sinh của người dân thành phố Nam Định như: Chiếc máy khâu thời kỳ này giúp con người may vá quần áo, chiếc máy đánh chữ cũng là công cụ để kiếm thêm thu nhập,.. Có nhiều nghề mà nếu như không sống trong giai đoạn đó khó có thể nghĩ đến như: Nghề mua bán tem phiếu, nghề bơm bút bi, nghề đánh máy chữ, nghề làm thuốc lá,… Như vậy, sưu tập hiện vật tựa như một bức tranh thu nhỏ, một không gian văn hóa tái hiện sinh động và cụ thể những nét văn hóa đặc trưng của người dân thành phố Nam Định giai đoạn 1976-1986. Sưu tập hiện vật hiện đang được trưng bày và hấp dẫn công chúng tham quan Bảo tàng tỉnh Ninh Bình - Cơ sở 2. Với những hiện vật hàm chứa những câu chuyện cảm động đã đem đến cho công chúng hai trạng thái cảm xúc, đó là sự hồi tưởng (với thế hệ người lớn tuổi) và trải nghiệm (với thế hệ tuổi trẻ). Những người sinh ra và lớn lên trước thời kỳ đổi mới khi đến tham quan sẽ hồi tưởng lại quá khứ, dấu ấn đậm nét một thời và chia sẻ những câu chuyện của riêng mình với các thế hệ trẻ tiếp bước. Thế hệ trẻ được trải nghiệm không gian văn hóa này sẽ hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống khó khăn, gian khổ của ông, bà, cha, mẹ để từ đó càng trân trọng và tự hào hơn những thành quả ngót 30 năm đổi mới của Đảng, của đất nước, đồng thời phát huy truyền thống, nỗ lực phấn đấu vươn lên, góp phần xây dựng và phát triển quê hương Ninh Bình nói riêng, đất nước Việt Nam nói chung ngày một giàu đẹp văn minh.

Sưu tập hiện vật Sơn mài Cát Đằng

“Sưu tập hiện vật sơn mài Cát Đằng tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình” gồm 173 hiện vật (195 thành phần hợp thành hiện vật), được phân thành 4 nhóm hiện vật, trong đó có 85 hiện vật là sản phẩm hàng chắp, được làm từ chất liệu nứa, sơn mài chiếm số lượng nhiều nhất. Sau đó đến sản phẩm hàng nét với 41 hiện vật được làm từ chất liệu gỗ, sơn mài. Bên cạnh hai chất liệu chính, còn có bộ dụng cụ sản xuất sản phẩm sơn mài truyền thống có 15 hiện vật đa chất liệu như: gỗ, nhựa, sắt, sừng trâu, tóc người hoặc lông động vật (lông heo, mèo) và nhóm hiện vật giấy ảnh, nội dung phản ánh lịch sử hình thành và phát triển nghề sơn mài Cát Đằng: 32 hiện vật. Hiện vật thuộc sưu tập có niên đại sớm nhất là cuối thế kỷ XIX và muộn nhất: đầu thế kỷ XXI. Sưu tập hiện vật sơn mài Cát Đằng phong phú và đa dạng về loại hình, chất liệu. Đa số hiện vật là những mẫu trưng bày, giới thiệu sản phẩm và làm mẫu để sản xuất ra nhiều sản phẩm khác phục vụ nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tùy thuộc loại hình sản phẩm lại có những chức năng sử dụng khác nhau như: hiện vật sơn mài thuộc hàng nét sử dụng để trang trí làm đẹp không gian gia đình, công sở như: các bức tranh sơn mài; Có nhóm hiện vật là đồ thờ: câu đối, chân đế, mâm bịch,… sử dụng để bày trang trí không gian di tích, từ đường dòng họ,…. Một loại hình hiện vật sử dụng làm đồ lưu niệm, đồ gia dụng phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày như: Album, bàn cờ, khay…. Khác với hiện vật là sản phẩm hàng nét, hiện vật thuộc sản phẩm hàng chắp được làm từ chất liệu nứa, sơn mài sử dụng để trang trí nội thất tinh xảo như bình, lọ hoa,…Một loại hình hiện vật là đồ gia dụng để đựng hoa quả, thức ăn,... Ngoài ra còn một số hiện vật được sáng tạo mẫu mới hiện đại, bắt nhịp với xu hướng phát triển của xã hội như các sản phẩm bát với các kiểu dáng cách tân như bát dáng thuyền, bát khảm vỏ ốc, lọ lục bình, lọ cắm hoa, đã góp phần tôn thêm vẻ sang trọng cho không gian nội thất của gia đình, công sở. Sưu tập hiện vật sơn mài Cát Đằng có giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật độc đáo. Mỗi một hiện vật sơn mài thuộc sưu tập là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, thể hiện trình độ kỹ thuật đạt đến độ tinh xảo. Người nghệ nhân đã thể hiện sự công phu, tỉ mỉ, khéo léo trong từng chi tiết tạo tác sản phẩm. Từ việc lựa chọn sơn, pha chế sơn đến việc lựa chọn gỗ, nứa rồi chau chuốt tạo cốt, vóc gắn vá, bọc vải, bó, kẹt, hom, lót, thí, cầm,… tới sơn kết hợp vẽ đề tài trang trí, đánh bóng hoàn thiện cho sản phẩm. Có những tác phẩm tranh sơn mài từ khi bắt đầu đến hoàn thiện phải trải qua nhiều giai đoạn từ bước làm vóc tranh cho tới giai đoạn mài tới hàng chục các lớp sơn với những lượt mài khác nhau và có thể kéo dài khoảng 4 đến 6 tháng hay thậm chí là nhiều năm. Có lẽ cũng chính vì quá trình phức tạp đòi hỏi sự công phu cùng với kỹ thuật tỉ mỉ, kỹ lưỡng mà những tác phẩm sơn mài luôn bền đẹp và được đánh giá cao về giá trị nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn, khiến cho người xem không chỉ ngắm nhìn mà còn muốn khám phá, trải nghiệm từng chi tiết, biểu tượng cảm xúc mà tác giả thổi hồn vào tác phẩm. Hiện vật sơn mài không chỉ là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật sử dụng trang trí làm đẹp không gian mà còn hàm chứa bên trong những giá trị văn hóa, tinh hoa của dân tộc. Nội dung phản ánh quá trình lao động, sản xuất, sáng tạo tuyệt vời của cha ông ta trong việc tiếp thu và biến đổi các yếu tố văn để hình thành nên những thành tố văn hóa của riêng mình. Thông qua những nét vẽ tinh tế, sắc màu sống động trên hiện vật không chỉ biểu thị những cảm xúc sâu lắng của tác giả mà còn truyền tải những thông điệp văn hóa và triết lý sống của con người gửi gắm trong mỗi loại hình hiện vật như ước vọng cầu may mắn, bình an, sung túc và hạnh phúc. Nhiều sản phẩm đã trở thành biểu tượng đặc trưng cho văn hóa Việt Nam tồn tại từ bao đời nay như loại hình khay, tráp sử dụng trong Lễ ăn hỏi truyền thống, những sự kiện quan trọng… Mặt khác khi sáng tạo sản phẩm sơn mài, những nghệ nhân Cát Đằng đã phác họa những chủ đề thiên nhiên sinh động như núi non, sông nước, hoa lá, động vật,… để tái hiện và tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên làng quê Việt Nam, mang đến cảm giác vui tươi, yên bình và thanh lịch. Sưu tập hiện vật sơn mài Cát Đằng phản ánh giá trị lịch sử sâu sắc, giúp chúng ta tìm hiểu về mảnh đất, con người, làng nghề sơn mài Cát Đằng từ khi hình thành, phát triển đến nay đã có trên 700 năm lịch sử. Từ đó chúng ta càng trân trọng tự hào hơn những giá trị di sản văn hóa truyền thống của quê hương. Bởi mỗi hiện vật sơn mài đã hàm chứa bên trong những thông tin, phản ánh tư tưởng, đời sống văn hóa và quan niệm nghệ thuật của con người thời đại nó ra đời. Nó ghi lại những sự kiện lịch sử quan trọng thông qua những đề tài trang trí trên hiện vật - một nguồn tư liệu hữu ích giúp thế hệ sau có thể nhìn nhận sự thay đổi, phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và vai trò của con người trong mỗi giai đoạn lịch sử đó. Như vậy, có thể nói sưu tập hiện vật sơn mài Cát Đằng giúp chúng ta hình dung ra một bức tranh văn hoá đặc sắc được tô đậm bởi những hiện vật sơn mài độc đáo, phản ánh sự sáng tạo, khéo léo, tỉ mỉ cũng như những cảm xúc, tư tưởng, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của Nghệ nhân gửi gắm trong mỗi một hiện vật sơn mài. Nhờ đó mà những giá trị lịch sử văn hóa truyền thống hàm chứa trong mỗi loại hình sản phẩm được lan tỏa khắp các vùng miền không chỉ trong nước mà còn vươn ra ngoài một số nước trên thế giới, đóng góp vào sự đa dạng, làm giàu thêm bản sắc văn hóa của dân tộc.

15

Năm thành lập

872

Tư liệu trưng bày

7625

Lượt truy cập