Tìm hiểu những đồng tiền đầu tiên của nước ta
Từ thời xa xưa, khi mà người dân trên trái đất sống theo từng bộ lạc trong thời công xã nguyên thủy, mọi của cải vật chất đều được dùng chung, không có sở hữu cá nhân. Vì vậy, họ không cần có sự trao đổi mà vẫn có được những thứ mình muốn theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Sau này xã hội phát triển, các hình thái xã hội ra đời, mỗi cá nhân đều phải tự lao động để làm ra của cải. Tuy nhiên, mỗi cá nhân trong xã hội đều không thể tự làm ra hết của cải mà mình muốn hưởng thụ. Vì vậy, người ta phải trao đổi của cải với nhau để đáp ứng nhu cầu về các của cải, vật chất mà họ không làm ra. Đầu tiên, các cá nhân trong xã hội thực hiện trao đổi trực tiếp giữa các hàng hóa với nhau. Tuy nhiên, việc trao đổi trực tiếp giữa hàng với hàng có những nhược điểm là trao đổi mang tính giản đơn, ngẫu nhiên mà không có sự đồng nhất, gây nhiều khó khăn cho các cá nhân khi tham gia trao đổi dẫn tới hệ quả kìm hãm sự phát triển của các nền kinh tế. Điều này đòi hỏi phải có vật trung gian trong trao đổi nhằm khuyến khích trao đổi hàng hóa. Lúc này, người dân ở các địa phương đã biết sử dụng các sản vật quý hiếm của địa phương như muối, vỏ sò, lông cừu,… làm vật trung gian trong trao đổi hàng hóa. Khi đó, tất cả cá nhân tại các địa phương sẽ bán các sản phẩm do mình làm ra để đổi lấy các vật trung gian (muối, vỏ sò, lông cừu,…) rồi lại sử dụng các vật trung gian này để mua các sản phẩm khác mà mình có nhu cầu.
Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất thì hình thái tiền được ra đời. Giá trị của tất cả các hàng hoá ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò tiền tệ. Khi con người bắt đầu biết sử dụng các kim loại thì tiền bằng kim loại bắt đầu được tạo ra.
Các kim loại là vàng và bạc được dùng làm tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, việc dùng vàng làm tiền trong lưu thông có những hạn chế là khó mang theo, khó chia nhỏ để mua những sản phẩm có giá trị nhỏ như mớ rau, cân gạo,… Vì những lý do trên, đồng là kim loại được dùng để đúc tiền, nhất là các nước ở Châu Á.
Mỗi một triều đại phong kiến có sự phát triển khác nhau trên các lĩnh vực về thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, việc phát hành và lưu hành tiền đồng cổ có nhiều điểm giống và khác nhau để phân biệt các triều đại.
Tiền cổ của Việt Nam và Trung Quốc đều được đúc bằng kim loại dạng hình tròn với lỗ vuông ở chính giữa. Mặt chính của đồng tiền có các chữ Hán mà ít nhất có hai chữ thường là niên hiệu của nhà vua và hai chữ sau dùng để chỉ tiền là vật quý dùng cho giao thương buôn bán, trao đổi. Cũng có thể có loại tiền không có hai chữ này. Vị trí của bốn chữ đọc theo chiều thuận của kim đồng hồ hoặc theo kiểu chéo (từ trên xuống dưới, từ phải sang trái).
Mặt sau của tiền thường không có chữ, tuy nhiên một số nhỏ có chữ để chỉ một trong các ý nghĩa sau: như là niên hiệu, năm phát hành, nơi đúc tiền, ý nghĩa tốt đẹp, ký hiệu đặc biệt, mệnh giá tiền…
Các đồng tiền cổ có đường kính trung bình từ 2,2cm- 2,4cm. Tuy nhiên, cũng có loại tiền có kích thước lớn (thường gọi là Đại tiền) như tiền Minh Mạng thông bảo (triều Nguyễn) đường kính 5,0cm, tiền Thiệu Trị thông bảo (triều Nguyễn) đường kính 5,5cm. Kích thước của lỗ vuông trung bình vào khoảng 0,5 – 0,8 cm. Trọng lượng của mỗi đồng tiền trung bình từ 1,5 – 6,2g, đồng tiền lớn có trọng lượng 6,2g (như tiền Cảnh Thống thông bảo).
Theo chính sử, ở Việt Nam, đồng tiền được đúc và lưu hành đầu tiên là tiền “Thái Bình hưng bảo” do Đinh Tiên Hoàng đế cho đúc vào năm 970.
Tượng vua Đinh ở đền thờ tại Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình)
Sử cũ chép rằng: Năm 968, bằng tài năng thao lược, Đinh Bộ Lĩnh người làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) đã lần lượt đánh bại hoặc gọi hàng mười hai sứ quân, xoá bỏ nạn cát cứ, thống nhất đất nước. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, bề tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế (大 勝 明 皇 帝). Vua đặt tên nước là Đại Cồ Việt (大 瞿 越), lấy niên hiệu là Thái Bình (太 平), quyết định lấy vùng núi đá Trường Yên hiện nay xây dựng kinh đô Hoa Lư (花 閭) – lấy tên của vùng đất vua đã chiêu tập nghĩa quân và khởi dựng sự nghiệp - động Hoa Lư. Vua ban hành hàng loạt chế độ, chính sách: “xưng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ…”.
Tiền Thái Bình hưng bảo (太 平 興 寶) đúc bằng chất liệu đồng bạch, đường kính khoảng 23,5mm, độ dày 1mm, trọng lượng khoảng 2,2g. Tiền hình tròn, giữa có lỗ hình vuông. Mặt trước có bốn chữ Hán: “Thái Bình hưng bảo”, lối chữ chân, rất nét và dễ đọc, cách đọc kiểu đối nhau (trên - dưới, phải - trái). Mặt sau (lưng) có chữ đinh (丁), có thể trình bầy phía trên hoặc dưới lỗ hình vuông.

Mặt trước tiền Thái Bình hưng bảo

Mặt sau
Năm 980, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn kế tục sự nghiệp nhà Đinh, năm 981 ông tiến hành công cuộc kháng Tống ở biên giới phía bắc, năm 982, bình Chiêm ở biên giới phía nam thắng lợi rực rỡ. Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, vẫn lấy tên nước là Đại Cồ Việt (大 瞿 越), đặt niên hiệu là Thiên Phúc(天 福). Vua ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp - tự đi cày ruộng vào mùa xuân (cày tịch điền), khuyến khích và chú trọng công tác thuỷ lợi - đào mới và nạo vét kênh mương…Vua cho xây dựng các cung điện nguy nga, tráng lệ tại kinh đô Hoa Lư: “dựng điện Bách Bảo thiên tuế ở núi Đại Vân, cột dát vàng bạc, làm nơi coi chầu, phía đông là điện Phong Lưu, phía tây là điện Tử Hoa, bên tả là điện Tử Hoa, bên hữu là đện Cực Lạc. Tiếp đó làm lầu Đại Vân, dựng tiếp điện Trường Xuân làm nơi vua nghỉ. Bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, mái lợp ngói bạc”. Đặc biệt năm 984, vua Lê cho đúc tiền Thiên Phúc trấn bảo (天 福 鎮 寶), “Thiên Phúc năm thứ năm (984), mùa xuân, tháng 2 đúc tiền Thiên Phúc(Đại Việt sử ký toàn thư).
Về căn bản, tiền Thiên Phúc trấn bảo cũng giống tiền Thái Bình hưng bảo thời Đinh. Tiền đúc bằng chất liệu đồng bạch, hình tròn, giữa có lỗ hình vuông. Mặt trước có bốn chữ Hán: “Thiên Phúc trấn bảo”, lối chữ chân, rất nét và dễ đọc, cách đọc kiểu đối nhau (trên-dưới, phải-trái). Mặt sau (lưng) có chữ đinh (黎), trình bầy phía trên lỗ hình vuông.
Mặt trước tiền Thiên Phúc trấn bảo
*Điểm khác nhau của đồng tiền Thái Bình hưng bảo và Thiên Phúc trấn bảo với những đồng tiền Trung Quốc cùng thời:
- Tiền Thái Bình hưng bảo do vua Đinh đúc khoảng từ năm 970 đến năm 975, lưng có chữ đinh (丁). Niên hiệu Thái Bình Hưng bảo của nhà Tống mãi đến năm 976 mới có, đồng tiền của nhà Tống là tiền Thái Bình thông bảo, lưng không có chữ đinh(丁). Đây là dấu hiệu đặc trưng nhất của đồng tiền nhà Đinh khác với đồng tiền nhà Tống cùng thời.
- Tiền Thiên Phúc trấn bảo do vua Lê năm 984, lưng có cữ lê (黎).
Điều khác biệt đặc trưng nhất của hai đồng tiền Thái Bình hưng bảo do nhà Đinh đúc và đồng tiền Thiên Phúc trấn bảo do nhà Lê đúc khác với các đồng tiền cùng thời do các triều đại phong kiến Trung Quốc đúc là các đồng tiền này lưng có chữ đinh (丁) hoặc chữ lê (黎) là tên của triều đại đúc nên, còn tiền do các triều đại Trung Quốc đúc thì lưng để trơn, không có chữ. Mặt khác, các đồng tiền do các triều đại Trung Quốc cùng thời với nhà Đinh-Lê (ở nước ta) mặt trên có niên hiệu và hai chữ thông bảo (通 寶), ví dụ như tiền Thái Bình thông bảo (太 平 通 寶) hay Hàm Bình thông bảo (咸 平 通 寶).
Đồng tiền Thái Bình hưng bảo và Thiên Phúc thông bảo là những đầu tiền đầu tiên của nước ta do vua Đinh và vua Lê đúc. Tiền là phương tiện phục vụ giao thương, buôn bán, nhưng cũng là niềm tự hào, ý chí độc lập tự cường, không phụ thuộc vào ngoại bang (trước thời vua Đinh, nước ta vẫn dùng các đồng tiền của các triều đại Trung Quốc đúc trong giao dịch, buôn bán). Sau này, các triều đại phong kiến Việt Nam đều kế thừa tinh hoa của nghệ thuật trang trí và kỹ thuật đúc tiền của nhà Đinh để hoàn thiện hơn công nghệ đúc tiền.
Hiện nay, những đồng tiền do vua Đinh và vua Lê đúc còn lại không nhiều do thời gian, cũng có giả thiết cho rằng thời kỳ nhà Đinh, nhà Lê vương triều ngắn ngủi lại chiến tranh liên miên nên những đồng tiền trên được đúc không nhiều, mặt khác do bị thất lạc. Tuy nhiên, trong những năm qua, nhân dân địa phương đã phát hiện thấy nhiều sưu tập tiền “cất dấu” dưới lòng đất. Với tinh thần và trách nhiệm, những người phát hiện đã báo cho cơ quan chức năng đến tiếp nhận và đưa về bảo tàng tỉnh lưu giữ và phát huy giá trị. Trong những sưu tập tiền cổ quý giá ấy, đã phát hiện thấy những đồng tiền thời Đinh – Tiền Lê với số lượng rất khiêm tốn. Việc sưu tầm, lưu giữ và phát huy tác dụng của những đồng tiền quý báu trên rất cần các cơ quan hữu quan và các nhà sưu tầm cổ vật quan tâm, chú ý để bảo tồn những giá trị văn hoá độc đáo và quý giá của ông cha ta.
.jpg)
_croped_393x250_on(30-06-2022_7695259).jpg)
.jpg)
.jpg)

.jpg)


.jpg)

.png)
.jpg)